(function ( $ ) { 'use strict'; window.InlineShortcodeView_vc_pie = window.InlineShortcodeView.extend( { render: function () { _.bindAll( this, 'parentChanged' ); window.InlineShortcodeView_vc_pie.__super__.render.call( this ); this.unbindResize(); vc.frame_window.vc_iframe.addActivity( function () { this.vc_iframe.vc_pieChart(); } ); return this; }, unbindResize: function () { vc.frame_window.jQuery( vc.frame_window ).off( 'resize.vcPieChartEditable' ); }, parentChanged: function () { this.$el.find( '.vc_pie_chart' ).removeClass( 'vc_ready' ); vc.frame_window.vc_pieChart(); }, rowsColumnsConverted: function () { window.setTimeout( this.parentChanged, 200 ); this.parentChanged(); } } ); })( window.jQuery ); Vấn đề của cột lọc nước và những điều cần biết - Thế giới nước Aqua class="post-template-default single single-post postid-1286 single-format-standard theme-flatsome woocommerce-no-js lightbox nav-dropdown-has-arrow nav-dropdown-has-shadow nav-dropdown-has-border"

Vấn đề của cột lọc nước và những điều cần biết

Bài viết này sẽ mang đến các sự cố thường xảy ra khi vận hành cột lọc đa vật liệu, cách xử lý và phòng tránh sự cố.

Lỗi thứ nhất mà  chúng ta thường thấy là châm hóa chất thừa hoặc thiếu. Lỗi này xảy ra do các nguyên nhân như sau:

  • Tính toán không đúng dẫn đến châm hóa chất quá nhiều. Ví dụ ở một hệ thống, khi polymer châm vào quá nhiều làm các hạt keo tụ trong nước không tạo bông lại được. SDI thì luôn cao hơn 5. Kết quả là lọc catridge filter nghẹt thường xuyên, phải thường xuyên thay thế. Để khắc phục và phòng tránh vấn đề này, chúng ta nên dựa vào kết quả kiểm nghiệm nước đầu vào rồi điều chỉnh polymer ở mức thấp nhất, theo dõi kết quả SDI, tăng dần lưu lượng bơm vào để xem xu hướng của SDI.
  • Hóa chất châm vào hệ thống không được khuấy trộn do châm nguyên dung dịch gốc vào hệ thống, không pha loãng. Điều này có thể làm cho vật liệu lọc ở lớp trên bị vón cục do polymer dính trên lớp này. Vấn đề này chúng ta có thể thấy khi rửa ngược, anthracite dính chùm với nhau và nổi lên. Để khắc phục hiện tượng này, chúng ta nên pha loãng hóa chất ra với một liều lượng phù hợp.
  • Không tinh chỉnh lượng hóa chất châm vào hệ thống tương ứng với chất lượng nước hoặc do thiếu thiết bị đo cần thiết. Trong quá trình vận hành hệ thống lọc nước cấp, chất lượng nước đầu vào có thể thay đổi do một số nguyên nhân. Ví dụ lượng clo trong nước tăng lên, chúng ta cần điều chỉnh tăng NaHSO3. Ngoài ra, nhiều hệ thống không có đầy đủ thiết bị đo gây khó cho người vận hành. Khi đó, chi phí để khắc phục hậu quả có thể cao hơn so với chi phí bỏ ra để mua thiết bị đo.

Lỗi thứ hai là rửa ngược không đúng, khi rửa ngược sai quy cách chúng ta có thể gặp các vấn đề sau:

  • Sự hình thành các kênh rỗng trong lớp vật liệu lọc. Bình thường khoảng cách giữa các hạt vật liệu lọc là từ 5 đến 20 micromet, các hạt cặn trong nước bị giữ ở các khoảng này. Tuy nhiên, do rửa ngược không đủ áp suất và lưu lượng để giãn nở vật liệu lọc hoặc là tần suất rửa ngược quá lâu. Sau một thời gian nước đi qua tạo thành các lối mòn có kích thước lớn như các kênh rỗng, các hạt cặn tự do đi theo dòng nước qua các kênh này nên hiệu quả của lớp vật liệu không còn.

Giấy SDI

Thông thường, chúng ta căn cứ vào độ chênh áp đầu vào và đầu ra của cột lọc để tiến hành rửa ngược. Tuy nhiên khi sự cố này xảy ra, độ chênh áp đầu vào và đầu ra sẽ không tăng lên làm chúng ta lầm tưởng cột lọc vẫn đang hoạt động tốt. Nhưng sự thật là nước đi vô các kênh rỗng này nên không bị mất áp. Tốt nhất chúng ta nên duy trì tần suất ít nhất là 1 tuần rửa ngược một lần để tránh sự cố trên.

Lưu lượng rửa ngược đề xuất

Lưu lượng rửa ngược đề xuất bên trên có thể áp dụng với một số cột lọc đa vật liệu. Tuy nhiên để đảm bảo, chúng ta nên vận hành lưu lượng rửa ngược gấp đôi lưu lượng vận hành. Đối với cột lọc có từng loại vật liệu lọc đơn lẻ và đường kính cột lọc khác nhau thì lưu lượng đòi hỏi cho quá trình rửa ngược sẽ khác nhau. Ví dụ cột lọc mangan cát xanh thì có lưu lượng rửa ngược khác cột lọc filox.

Để giải quyết sự cố khi lớp vật liệu lọc trong cột lọc đã tạo thành  các kênh dẫn thì khi rửa ngược chúng ta phải kết hợp sục khí để đẩy lớp vật liệu lọc nở ra trong vòng 15-30 phút, rồi khi chúng lắng thì tự nhiên chúng sẽ phân lớp do khối lượng riêng của chúng khác nhau, với điều kiện là khoảng không bên trên phải đủ trống cho chúng giãn nở.

Khi làm điều này chúng ta cũng phải cẩn thận mở van cấp nước rửa ngược và mở van khí từ từ, không nên mở quá nhanh. Khi mở quá nhanh, lực quá lớn, tại một lúc chúng sẽ không phân phối đều khắp đáy của cột lọc. Khi lực đẩy từ dưới lên tập trung vào một điểm có thể gây nứt bể đầu thu nước, chúng sẽ đi một đường, làm cho sự xáo trộn không diễn ra đều. Khi đó, sỏi sẽ vàng lên lớp trên mà mất đi tác dụng là lớp sỏi đỡ. Ví dụ trường hợp khi làm tái sinh cho hạt nhựa cột trao đổi ion mixed bed, van khí mở quá nhanh và lớn. Khí và nước ập vào với lực lớn đã làm bể đầu  thu nước bên dưới đáy cột trao đổi ion và hậu quả là khi rửa xuôi, hạt nhựa chảy ra đầy ở resin trap. Khi đó, chúng ta phải tháo toàn bộ, lấy nhựa ra, mở nắp bồn, làm lại phần đầu thu nước của cột trao đổi ion.

Lỗi thứ ba là mất vật liệu lọc. Theo khuyến cáo thì qua mỗi năm, chúng ta phải bổ sung 5% lượng vật liệu lọc vào cột lọc do các hạt vật liệu lọc bị vỡ ra và trôi ra ngoài khi tiến hành rửa ngược. Tuy nhiên, một số trường hợp do chụp lọc, đầu thu và phân phối nước bị nứt vỡ dẫn đến vật liệu lọc bị mất đi đáng kể. Để phát hiện vấn đề này sớm, khi thiết kế lắp đặt cột lọc, chúng ta nên chọn cột lọc có mặt kính bên hông để quan sát. Trên đường ống rửa ngược nên có một đoạn ống trong suốt để quan sát, đánh giá, tránh mất vật liệu lọc.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *